1. Quy định về cấp dưỡng nuôi con trong pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
Luật HN&GĐ năm 2014 định nghĩa: “Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này”.
Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng theo quy định của Luật này. Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác.
Luật HNGĐ năm 2014 quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn tại Điều 82 và được cụ thể tại Điều 107, Điều 110, từ Điều 116 – 118, Chương VII về cấp dưỡng. Theo đó, sau khi ly hôn, cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng trốn tránh nghĩa vụ thì theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức được Luật quy định, Tòa án buộc người đó phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định.
Như vậy, trong pháp luật về HNGĐ quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ và con sau khi ly hôn. Đồng thời nếu người có nghĩa vụ cấp dưỡng để thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thì những người được Luật HNGĐ quy định có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền buộc người vi phạm thực hiện nghĩa vụ theo quy trình tố tụng dân sự.
2. Một số vấn đề phát sinh, vướng mắc
Như đã phân tích trên đây, Luật HNGĐ quy định cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con và quy định về quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết khi có sự vi phạm nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi cha, mẹ ly hôn.
Tuy nhiên, trong thực tiễn thi hành Luật HNGĐ năm 2014 và thực tế hoạt động xét xử lại phát sinh vấn đề như sau: Luật không có quy định về quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của một bên cha hoặc mẹ đối với bên còn lại trong trường hợp bên còn lại không sống chung hoặc sống chung nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con trong thời kỳ hôn nhân. Vì vậy, câu hỏi đặt ra là quyền yêu cầu cấp dưỡng nuôi con có thể thực hiện ngay trong thời kỳ hôn nhân hay không và nếu có thì xác định thời điểm thực hiện nghĩa vụ từ khi nào.
Dưới góc nhìn pháp lý, gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của Luật HNGĐ.
Nghĩa vụ cấp dưỡng là sự thể hiện tình đoàn kết giữa các thành viên trong cùng một gia đình, là nghĩa vụ mà luật áp đặt đối với một thành viên gia đình, theo đó thành viên này phải giúp đỡ thành viên khác, về phương diện vật chất, trong điều kiện thành viên khác sống trong tình trạng túng quẫn và không thể tự mình giải quyết vấn đề ổn định điều kiện sống vật chất của mình hoặc trong trường hợp sau khi ly hôn, vợ chồng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau nếu người kia thuộc diện được cấp dưỡng.
Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền nuôi dưỡng, chăm sóc con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Cấp dưỡng là một hình thức, hành vi để cha mẹ thực hiện nghĩa vụ đồng thời cũng là quyền của mình trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng con.
Mặt khác, “Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con” bản chất là được cụ thể hóa từ quy định “Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”. Có thể nói, việc nuôi dưỡng, chăm sóc con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình cũng chính là trách nhiệm xuyên suốt của cha, mẹ mà không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha, mẹ.
Tuy nhiên Luật HNGĐ năm 2014 cũng như Luật Trẻ em năm 2016 không đưa ra khái niệm cụ thể về “nuôi dưỡng” cũng như các tiêu chí để xác định một đứa trẻ sẽ được đảm bảo nuôi dưỡng như thế nào để đáp ứng các điều kiện vật chất tối thiểu, phát triển bình thường. Do đó, trên thực tế, mặc dù có nhiều cha, mẹ có hành vi vi phạm nghĩa vụ “nuôi dưỡng” khi đang sống chung với con nhưng cũng không bị buộc phải cấp dưỡng do không có căn cứ.
Như vậy, nếu đã quy định nghĩa vụ và quyền ngang nhau trong mọi mặt của gia đình nhưng Luật HNGĐ lại chỉ mới quy định về quyền yêu cầu cấp dưỡng sau khi ly hôn mà lại không quy định quyền yêu cầu cấp dưỡng nuôi con ngay cả trong thời kỳ hôn nhân khi một bên không sống chung hoặc sống chung nhưng vi phạm nghĩa vụ nôi dưỡng con là chưa thỏa đáng, không toàn diện và thiếu sót.
3. Kiến nghị
Từ thực tiễn hoạt động và vướng mắc phát sinh trong cong tác chuyên môn, tác giả có kiến nghị như sau:
Thứ nhất, Hội đồng Thẩm phán TANDTC sớm có văn bản hướng dẫn cụ thể về quyền khởi kiện của các đương sự khi có tranh chấp cấp dưỡng nuôi con trong thời kỳ hôn nhân và hướng dẫn rõ về nội dung quy định tại Điều 110 Luật HNGĐ năm 2014: “Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con” theo hướng đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu cấp dưỡng nuôi con đối với người vi phạm nghĩa vụ nuôi con không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của bố mẹ, có nghĩa là có thể khởi kiện yêu cầu cấp dưỡng cả trong thời kỳ hôn nhân khi một bên không sống chung hoặc sống chung nhưng vi phạm thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con. Trong trường hợp này Tòa án có thẩm quyền thụ lý vụ án có thể áp dụng quy định về áp dụng tương tự pháp luật của BLDS năm 2015 và các quy định về cấp dưỡng sau khi ly hôn của cha, mẹ đối với con để giải quyết.
Thứ hai, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về thời gian cấp dưỡng nuôi con trong thời kỳ hôn nhân mà tòa án ấn đinh đối với người có nghĩa vụ cấp dưỡng là khoảng thời gian thực tế từ thời điểm bắt đầu mà người có nghĩa vụ nuôi dưỡng vi phạm nghĩa vụ cho đến khi kết thúc hành vi vi phạm nghĩa vụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hợp pháp khác.
4. Kết luận
Vấn đề yêu cầu cấp dưỡng trong thời kỳ hôn nhân là một vấn đề vưỡng mắc phát sinh trong thực tế đời sống và hoạt động xét xử. Tuy nhiên vì các quy định của pháp luật HNGĐ hiện hành chưa quy định rõ ràng, cụ thể về nội dung này nên đã phát sinh một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án.
Để hoạt động xét xử và áp dụng pháp luật được thống nhất, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống mình, trong trường hợp cha, mẹ không sống chung hoặc sống chung nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng thì vấn đề này cần sớm được HĐTP TANDTC có hướng dẫn kịp thời để công tác giải quyết, xét xử của ngành Tòa án được thống nhất trong toàn hệ thống.